Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

Câu hỏi liên quan đến Cây mật gấu

Cây Mật gấu Hiện nay, có nhiều câu hỏi liên quan đến một cây mà dân gian gọi là “Cây Mật gấu”.
Đó là cây gì? Hình dạng và tác dụng ra sao? Mua ở đâu? Và trồng như thế nào? Hoặc, tôi có một khúc cây Mật gấu (màu vàng từ trong ra ngoài) định ngâm rượu, nhưng không biết phải làm thế nào? Lại có ý kiến giải đáp ngay trên mạng: Cây Mật gấu là cây Gấc (!).
Ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta như Bắc Kạn, Cao Bằng cũng có một cây thuốc mà người dân gọi là “cây Mật gấu”. Dược liệu này được thu hái ngay tại địa phương, và bán ở các nhà hàng dọc quốc lộ thuộc hai tỉnh trên (dưới dạng những đoạn thân cây, hay đã chặt nhỏ, đựng trong túi nilon).
Đó chính là cây Hoàng liên ô rô, còn gọi là Mã hồ, Thích hoàng liên, Tông plềnh (H’ Mông). Tên khoa học là Mahonia neplensis DC., thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidceae).
Cây gỗ nhỏ, có thể cao 4 – 6m. Lá kép hình lông chim lẻ, mọc so le, dài 20 – 40 cm, mang 11 – 25 lá chét cứng không cuống, hình trái xoan hẹp, dài 6 – 10cm, rộng 2 – 4,5cm, gốc tròn, đầu lá nhọn như gai, mép có răng nhọn; gân chính 3. Lá kèm nhọn như hai gai nhỏ. Các cụm ho ở ngọn thân, mang nhiều hoa màu vàng nhạt; lá đài 9, xếp thành 3 vòng; cánh ho 6, có tuyến ở gốc; nhị 6; bầu hình trụ. Quả thịt, hình trái xoan, đường kính khoảng 1cm, đầu quả có núm nhọn, khi chín màu xanh nâu, chứa 3 – 5 hạt. Mùa hoa: tháng 2 – 4, quả: tháng 5 – 6.
Ở Việt Nam, cây Hoàng liên ô rô mọc hoang, thường gặp ở một số tỉnh vùng núi cao và mát như Cao Bằng, Lào Cai (Phan Si Pan), Lai Châu, Bắc Kạn, Lâm Đồng (Lang Bian)…. Ngoài ra, còn có ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Nepal, Ấn Độ… Người ta dùng lá, thân, rễ và quả để làm thuốc. Thân và lá thu hái quanh năm, rửa sạch, phơi khô. Gỗ của thân và rễ có màu vàng nhạt, vị rất đắng như mật gấu, vì vạy mà có tên là “cây Mật gấu”.
Trong cây có các alcoloid nhóm benzyl isoquinolein: gồm berberin, berbamin, oxyacanthin, isotetrandin, palmatin và jatrorrhizin… Rễ còn chứa umbellatin (0,48%) và neprotin. Quả cũng có berberin và jatrorrhizin.
Theo Đông y, Hoàng liên ô rô có vị đắng, tính mát, vào 4 kinh phế, vị, can, thận; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm làm se. Người ta thường dùng rễ hoặc thân sắc uống (10 – 20g), hay phối hợp với các vị thuốc khác để chữa kiết lỵ, viêm ruột, tiêu chảy, viêm gan vàng da, mắt đau sưng đỏ. Dùng lá hay quả (8 – 12g) sắc uống, hay phối hợp với các vị thuốc khác. Nó còn được dùng chữa sốt cơn, ho lao, khạc ra máu, lưng gối yếu mỏi, chóng mặt, ù tai, mất ngủ. Dùng ngoài, nấu nước đặc để rửa, chữa viêm da dị ứng, lở ngứa. Ở Ấn Độ người ta dùng quả trị kiết lỵ, lợi tiểu, làm dịu và kích thích.
Ngoài cây nói trên, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc còn có loài Mahonia bealei (Fort). Carr., cũng có những alcaloid chính tương tự, và cũng được dùng như Hoàng liên ô rô.
Chú ý: không nhầm lẫn với cây Gáo đỏ, hay Vàng kiêng dỏ, cũng có tên là ‘cây Mật gấu’, tên khoa học là Neonauclea purpurea (Roxb.) Merr., họ Cà phê (Rubiaceae). Đây là cây gỗ cao 10 – 15m, mọc ở Quảng Trị, Đà Nẵng, Khánh Hòa. Vị rất đắng. Gỗ dùng trong xây dựng. Theo cố Lương y L. T. Đức thì cành và vỏ cây này dùng làm thuốc chữa đau họng, viêm amydal, viêm ruột lỵ, viêm đường tiết niệu; dùng 20 – 40 g sắc uống. Cành lá tươi nấu nước, ngâm rửa, chữa lở ngứa, lở chàm, chảy nước vì viêm da.

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Cây mật gấu trị ung thư

Cây mật gấu trị ung thư

Cây mật gấu thuộc họ hoàng liên gai. Gỗ của thân và rễ có màu vàng nhạt, vị rất đắng như mật gấu, vì vậy mới có tên là cây mật gấu.
Theo Đông y, cây mật gấu có vị đắng tính mát, vào 4 kinh: phế, vị, can, thận có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, làm se. Người ta thường dùng  8 - 12  rễ hoặc thân cây sắc uống chữa ăn uống không tiêu, trị đau ngực, đau gối, chóng mặt, ù tai, viêm gan, vàng da, tiêu chảy, kiết lỵ, đau mắt.
Dùng lá hay quả (8 - 12g) sắc uống hay phối hợp với các vị thuốc khác. Ngoài ra, hoàng liên ô rô còn được dùng để chữa sốt cơn, ho lao, khạc ra máu, lưng gối yếu mỏi, mất ngủ. Dùng ngoài, nấu nước đặc để rửa chữa viêm da dị ứng, lở ngứa...
Cay mat gau tri ung thu
 Cây mật gấu chữa trị ung thư gan
Việc dùng hoàng liên ô rô để trị ung thư chưa được nghiên cứu, chỉ theo kinh nghiệm dân gian, trên tinh thần  để an lòng người bệnh và người nhà, còn hiệu quả  như thế nào, phải đợi có sự nghiên cứu sâu mới nói được. Theo sách "Cây thuốc phòng trị bệnh ung thư" của Phan Lê, Hoàng liên ô rô có thể dùng:
Trị ung thư gan: Hoàng liên ô rô 30g, Long quỳ, tức cây lu lu đực (Solanum nigrum) 30g. Dược liệu khô sắc uống ngày 1 thang, trị dùng dài ngày.
Ung thư mũi họng: Hoàng liên  ô rô 60g, thạch bì 40g, hạ khô thảo 45g, cam thảo 9g, sắc uống.
Ung thư phổi: Hoàng liên  ô rô 15g, thạch quyết minh 30g, toàn yết 6g, cương tàm 9g, câu đằng 9g, trư ương ương (Galium aparine) 30g, xà lục cốc (Amorphophallus konjac) 30g (sắc trước). Sắc uống ngày 1 thang.

THÔNG TIN MỚI

Cây mật gấu thay thế mật gấu

Người ta có thể tự điều chế sản phẩm thay thế mật gấu được không? Hoàng Nam Cường (Nho Quan, Ninh Bình).
 http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/v2011/20110808-092644-1-4802557447-00feff32d3.jpeg
Cây mật gấu
Ông Chris Gee, giám đốc Chương trình Động vật hoang dã quốc tế, Hiệp hội Bảo vệ Động vật Thế giới (WSPA) cho biết: Hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào chỉ ra rõ ràng rằng mật gấu có tác dụng chữa bệnh mà chỉ có những nghi ngờ về khả năng có tác dụng nào đó đối với sức khoẻ con người.

Tuy nhiên, việc chích hút mật gấu là hành vi vi phạm pháp luật và đe dọa sự tuyệt chủng của loài động vật cần được bảo tồn này. Giải pháp để thay thế tốt nhất là các nhà khoa học đã tìm ra được loại hóa chất trùng với mật gấu có trong một số loài dược liệu và thuốc thay thế. Cây mật gấu là một trong số những loài dược liệu đó.

Những loài thảo dược này có tác dụng tương tự như mật gấu, trong thời gian tới WSPA sẽ công bố kết quả nghiên cứu này, từ đó người dân có thể sử dụng thảo dược thay vì sử dụng mật gấu.